5 Dấu hiệu cho thấy suy thoái kinh tế sắp xảy ra trên toàn cầu
Đồng Đô La Mỹ tăng mạnh, thị trường chứng khoán sụt giảm, kinh tế Mỹ suy yếu và những căng thẳng địa chính trị là những dấu hiệu cho thấy kinh tế toàn cầu đang tiến gần đến suy thoái. Giờ đây, câu hỏi không còn là “suy thoái kinh tế có xảy ra không” mà thay vào đó là “khi nào suy thoái kinh tế”.
Trong tuần qua, các dấu hiệu suy thoái kinh tế ngày càng rõ ràng hơn. Theo nghiên cứu của công ty Ned Davis, có tới 98% sẽ xảy ra suy thoái kinh tế trên toàn thế giới. Trong lịch sử, xác suất công ty nghiên cứu này đưa ra mức dự báo cao như vậy mới chỉ xảy ra 2 lần, đó là năm 2008 và 2020.
Để cảnh báo suy thoái kinh tế trên toàn cầu, các chuyên gia thường đưa ra dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau. Dưới đây là 5 dấu hiệu chính:
Đồng USD tăng mạnh
USD có một vai trò quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu. Thời điểm hiện tại, đồng USD đang mạnh hơn so với cách đây 2 thập kỷ. Nguyên nhân chính là do Cục dự trữ liên bang Mỹ FED liên tục tăng lãi suất kể từ tháng 3 để kiềm chế lạm phát. Chính sách này đã giúp đồng USD trở nên hấp dẫn hơn với các nhà đầu tư trên toàn thế giới.
Đồng Đô la Mỹ luôn được coi là kênh an toàn để gửi tiền. Vì thế, khi xảy ra dịch bệnh hay căng thẳng địa chính trị ở Đông Âu, các nhà đầu tư lại càng ưa chuộng USD. Hình thức đầu tư thường dưới dạng trái phiếu của chính phủ Mỹ.
USD mạnh lên sẽ đem lại lợi thế cho người dân Mỹ khi đi du lịch ở nước ngoài. Thế nhưng, các quốc gia khác lại đau đầu với vấn đề này. Trước sự tăng giá của đồng USD, các ngoại tệ khác như Bảng Anh, Euro, Nhân dân tệ, đồng Yên và nhiều đồng tiền khác đã giảm giá. Điều này khiến các quốc gia phải phải chi nhiều chi phí hơn khi nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu như thực phẩm, nhiên vật liệu…
Đáp lại, các ngân hàng trung ương lớn cũng sẽ tăng lãi suất cao hơn để kiềm chế lạm phát. Đồng thời, để nâng cao giá trị đồng tiền, các ngân hàng có thể đẩy nhanh quá trình tăng lãi suất.
Đồng USD mạnh lên cũng gây ra một vài hiệu ứng bất ổn cho phố Wall. Nhiều công ty S&P 500 đang kinh doanh trên khắp thế giới. Vì thế, mỗi lần USD tăng 1% thì thu nhập của các công ty này lại giảm 0,5% (theo ước tính của Morgan Stanley).
Động lực kinh tế Mỹ suy yếu
Động lực của một số nền kinh tế lớn nhất trên thế giới là mua sắm. Tuy nhiên, ở Mỹ và nhiều quốc gia khác, người dân đang cảm thấy mệt mỏi vì lương chưa tăng nhưng giá cả các mặt hàng khác thì lại tăng vọt. Theo nhà kinh tế trưởng của EY Parthenon, Gregory Daco cho biết: “khó khăn gây ra lạm phát, khiến người tiêu dùng phải sử dụng đến khoản tiền tiết kiệm của họ”.
Trong tháng 8, tỷ lệ tiết kiệm cá nhân không có nhiều thay đổi, ở mức 3,5%. Đây là mức gần mức thấp nhất kể từ năm 2008 đến nay và thấp hơn nhiều so với mức 9% tại thời điểm trước khi Covid-19 bùng phát. Nguyên nhân dẫn tới tình trạng này cũng liên quan tới chính sách của FED.
Lãi suất tiền gửi tăng cao khiến cho mức lãi suất vay thế chấp cũng bị đẩy lên mức cao nhất, khiến các doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc phát triển. Mục đích FED tăng lãi suất là để kiềm chế lạm phát, tuy nhiên, người tiêu dùng lại phải đối mặt với việc lãi vay cao và giá cả tăng cao. Đặc biệt là với các mặt hàng thiết yếu như thực phẩm hay nhà ở.
Trong thời gian phong tỏa vì Covid-19 năm 2020, người Mỹ đã mở ví chi tiêu. Điều này góp phần giúp kinh tế Mỹ thoát khỏi một cuộc suy thoái do đại dịch. Nhưng kể từ đó, trợ cấp của Chính Phủ đã sụt giảm, lạm phát bắt đầu xuất hiện, đẩy giá cả tăng với tốc độ nhanh nhất trong 40 năm trở lại đây. Điều này dẫn tới việc người tiêu dùng mất khả năng chi tiêu.
Các doanh nghiệp thắt chặt chi tiêu, hoạt động chững lại
Trong phần lớn thời gian đại dịch, hoạt động kinh doanh đã bùng nổ trên khắp các ngành nghề ở Mỹ nhờ sức mua của người tiêu dùng trong nước, ngay cả khi lạm phát tăng cao đã ăn mòn lợi nhuận của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, điều này không kéo dài quá lâu.
Giữa tháng 9 vừa qua, một gã khổng lồ Logistic của Mỹ là FedEx đã gây sốc khi thay đổi triển vọng kinh doanh. Doanh nghiệp hoạt động tại hơn 200 quốc gia này đã cảnh báo các nhu cầu đang đi xuống và thu nhập có thể giảm hơn 40%.
Trong một cuộc phỏng vấn, CEO của FedEx đã nói rằng, sự suy giảm trong hoạt động vận tải là một dấu hiệu cho thấy suy thoái trên toàn cầu đang ở rất gần.
Không chỉ FedEx, cổ phiếu Apple cũng đã giảm sau khi Bloomberg thông báo công ty này đã huỷ bỏ kế hoạch tăng sản lượng Iphone 14 do nhu cầu thấp hơn kỳ vọng.
Bên cạnh đó, trước kỳ nghỉ lễ hàng năm, các nhà tuyển dụng thường tăng cường bổ sung nhân sự nhưng năm nay lại khác. Hầu hết các doanh nghiệp đều đang quan sát tình hình. Theo ông Julia Pollak – nhà kinh tế trưởng tại ZipRecruiter, mức tuyển dụng tháng 9 năm nay chưa tăng so với thời điểm này của những năm trước. “Các công ty đều đang trì hoãn và theo dõi tình hình thực tế”, ông nói.
Chứng khoán sụt giảm
Những tháng vừa qua, phố Wall đã chao đảo và đang trên đà giảm tồi tệ nhất kể từ năm 2008 đến nay. Điều này hoàn toàn ngược lại với diễn biến năm 2021 khi S&P 500 tăng hơn 27% nhờ các chính sách tiền tệ nới lỏng của Cục dự trữ liên bang Mỹ.
Xu hướng tăng kéo dài tới đầu năm 2022, trước khi xuất hiện lạm phát và FED tăng lãi suất, cùng với đó là chương trình mua lại trái phiếu kết thúc. Kết quả là S&P 500 giảm tới 24%. Thậm chí, cả 3 chỉ số chứng khoán Mỹ đều mất điểm, giảm gần 20%. Đây là mức giảm cao nhất của các chỉ số chính này.
Không những thế, thị trường trái phiếu – nơi được xem là kênh trú ẩn an toàn khi các tài sản có giá khác mất giá trị cũng đang gặp khó khăn. Nguyên nhân cũng là do các chính sách của FED.
Lạm phát cùng với việc các ngân hàng trung ương lớn tăng lãi suất đã khiến trái phiếu sụt giảm, lợi suất trái phiếu tăng. Giữa tuần trước, lợi tức trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm đã tăng vượt mức 4%. Đây là mức cao nhất trong 14 năm trở lại đây.
Lợi suất trái phiếu châu Âu cũng đang tăng cao do các ngân hàng Trung Ương đang tăng lãi suất giống FED để nâng giá đồng tiền trong nước. Điều này dẫn tới việc có rất ít nơi an toàn để nhà đầu tư cất trữ tiền trong lúc này. Tình hình này sẽ khó có thể thay đổi cho đến khi lạm phát trên toàn thế giới được kiểm soát và các ngân hàng trung ương lớn thực hiện nới lỏng các chính sách tiền tệ trở lại.
Bất ổn chính trị, mâu thuẫn chính sách
Một trong những dấu hiệu cho thấy suy thoái kinh tế trên toàn thế giới sắp diễn ra đó là việc xảy ra mâu thuẫn trong các chính sách tài khóa tiền tệ ở một số nền kinh tế lớn. Theo CNN, hiện nay, trên thế giới, Anh đang là quốc gia có sự xung đột về kinh tế, tài chính, chính trị rõ ràng nhất.
Hiện nay, nước Anh đang phải đối mặt với tình trạng giá cả tăng vọt do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19. Cùng với đó là sự gián đoạn thương mại do cuộc xung đột giữa Nga và Ukraine. Sau các lệnh cấm vận của châu Âu, trong đó có việc cắt giảm nhập khẩu khí đốt tự nhiên của Nga, giá năng lượng đã tăng phi mã và nguồn cung ngày càng giảm.
Nhưng đó vẫn chưa phải tất cả. Chỉ hơn 1 tuần trước, Chính phủ mới của thủ tướng Liz Truss đã công bố một kế hoạch cắt giảm thuế sâu rộng. Các nhà kinh tế thuộc nhiều lập trường chính trị khác nhau đã phê phán chính sách này là không chính thống và tồi tệ.
Chính quyền Truss muốn giảm thuế với toàn bộ người Anh để khuyến khích việc tăng chi tiêu và đầu tư, qua đó giảm các tác động của của lạm phát. Tuy nhiên, chính sách này sẽ gây ra một vấn đề, đó là chính phủ Anh sẽ không có nguồn thu bổ sung để thực hiện kế hoạch, tức là chính phủ sẽ phải gánh thêm một khoản nợ.
Quyết định này đã gây ra một làn sóng bán tháo trái phiếu Anh và gây ra sự hoảng loạn trên thị trường tài chính của xứ sở Sương Mù. Đồng Bảng hiện đang ở mức thấp nhất so với USD trong gần 230 năm trở lại đây.
Điều này buộc ngân hàng trung ương Anh phải can thiệp khẩn cấp bằng cách mua trái phiếu để khôi phục trật tự trên thị trường tài chính. Tuy nhiên, tác động từ chính sách của bà Truss vẫn đang lan rộng.
Hiện Anh đang có mức lạm phát cao nhất trong khối G7, lên tới 10%. Người Anh vốn đã phải đối mặt với cuộc khủng hoảng do chi phí sinh hoạt tăng cao nay lại phải đối mặt với lãi suất cho vay tăng cao. Mức lãi suất mới này có thể khiến hàng triệu khoản nợ hàng tháng của người mua tăng thêm hàng trăm, thậm chí hàng nghìn bảng mỗi tháng.
Kết luận
Dù có nhiều dấu hiệu dự báo suy thoái toàn cầu có thể sẽ xảy ra vào năm 2023, thế nhưng không ai có thể dự đoán thời gian kéo dài và mức độ nghiêm trọng của nó.
Không phải cuộc suy thoái nào cũng gây ra thiệt hại nặng nề nhưng cuộc khủng hoảng giai đoạn 2007 – 2009. Thế nhưng, chắc chắn rằng cuộc suy thoái nào cũng sẽ gây ra đau thương và không phải quốc gia nào cũng có khả năng chống chọi mạnh mẽ như Mỹ.
Các nhà kinh tế tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) nhận định: “Chúng ta đang ở trong một vùng biển chưa được thăm dò”. Theo WEF, triển vọng trong thời gian tới với kinh tế thế giới và với phần lớn dân số toàn cầu là tương đối tiêu cực. Tuy nhiên, các chuyên gia cũng cho rằng, chính khủng hoảng lại giúp cải thiện mức sống và là động lực giúp nền kinh tế mạnh hơn.
“Các doanh nghiệp cần phải thay đổi. Đây là bài toán kể từ khi đại dịch Covid-19 diễn ra. Các doanh nghiệp sẽ không thể tiếp tục đi theo con đường cũ nữa. Đây là cơ hội xuất hiện trong nguy cơ” – theo ông Rima Bhatia – cố vấn kinh tế của Gulf International Bank.
Cổ phiếu được quan tâm nhất
Nổi bật
Định giá doanh nghiệp
Bộ thông tin theo từng doanh nghiệp được VNSC by Finhay phối hợp cùng các đối tác áp dụng công nghệ để xác định
- Xác định nhóm doanh nghiệp có tăng trưởng bền vững
- Dễ dàng ra quyết định với thông tin so sánh “Thị giá” - “Định giá” theo từng mã cổ phiếu